[Nghiên cứu hồi cứu] Đánh giá lâm sàng và X quang của hệ thống cấy ghép Hahn trong thời gian dài
Implant Hahn là sự đúc kết hơn 40 năm kinh nghiệm làm việc và nghiên cứu của bác sĩ Jack Hahn, chính vì vậy Implant Hahn đã mang trên mình những ưu điểm vượt trội, phù hợp với công nghệ cấy ghép hiện đại ngày nay. Hãy cùng điểm qua nghiên cứu hồi cứu “Đánh
Implant Hahn là sự đúc kết hơn 40 năm kinh nghiệm làm việc và nghiên cứu của bác sĩ Jack Hahn, chính vì vậy Implant Hahn đã mang trên mình những ưu điểm vượt trội, phù hợp với công nghệ cấy ghép hiện đại ngày nay. Hãy cùng điểm qua nghiên cứu hồi cứu “Đánh giá lâm sàng và Xquang của hệ thống cấy ghép Hahn trong thời gian 6 năm” của Mayuri Kerr, BDS, MS;* Brett Allen, MS;^ Neil Park, DMD#
TÓM TẮT
Cơ sở nghiên cứu: Kết quả tổng thể của một hệ thống cấy ghép với thiết kế cấy ghép mới có vòng đệm được gia công để giảm sự tích tụ màng sinh học, các vi phân cực của lớp tế bào để duy trì xương biểu mô, dạng thuôn với các ren đỡ để thiết lập độ ổn định chính và bề mặt được xử lý bằng phương pháp bột phun tái hấp thu thúc đẩy quá trình tích hợp tại vị trí cấy ghép đã được đánh giá trong một nghiên cứu hồi cứu kéo dài 2 năm. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hoạt động lâm sàng lâu dài của hệ thống cấy ghép này liên quan đến tỷ lệ thành công, đánh giá khả năng sống sót và mức độ mất xương trung bình (MBL).
Vật liệu và Phương pháp nghiên cứu: có tổng số 327 mô cấy đã được cấy ghép cho 117 bệnh nhân (đã đồng ý tham gia nghiên cứu) từ 2015-2021 và đã được đánh giá hồi cứu; sau khi loại bỏ những mô cấy lỗi thì số mô cấy còn sống sót đã được theo dõi bằng X-quang và đưa vào nghiên cứu là 238 mô cấy. Nghiên cứu sẽ đánh giá tỷ lệ thành công, cũng như MBL.
Kết luận: Điều trị bằng Hệ thống Implant dạng thuôn Hahn mang lại kết quả đáng tin cậy với tỷ lệ thành công và sống sót cũng như khả năng duy trì xương hàm cao.
GIỚI THIỆU
Hệ thống Implant dạng thuôn Hahn ™ được giới thiệu ra thị trường vào năm 2015 và đã nhận được sự chấp nhận rộng rãi trong những năm tiếp theo. Thiết kế có vòng đệm được gia công 1 mm để giảm sự tích tụ màng sinh học và các sợi siêu nhỏ ở rãnh 1 mm để hỗ trợ duy trì tính toàn vẹn của xương biên trong quá trình tải chức năng.(1)
Bề mặt mô cấy được xử lý bằng bằng phương pháp bột phun tái hấp thụ (RBM), mang đến bề mặt nhám vừa phải bằng cách sử dụng vật liệu canxi photphat tương thích sinh học. Bề mặt được làm nhám vừa phải này đã được chứng minh là thúc đẩy quá trình tích hợp xương bằng cách tăng tỷ lệ tiếp xúc giữa xương với implant. Hình dạng và thiết kế của mô cấy dạng thuôn nhọn với các rãnh đỡ, rãnh kép tự tạo ren, các ren nhỏ vòng đầu và kết nối phục hình hình nón đảm bảo độ khít, ổn định và duy trì mật độ xương hàm.
Xác định mức độ ổn định lâu dài của đường kính của xương biên chính là thành phần quan trọng để xác định tỷ lệ thành công. Người đầu tiên đưa tiêu chí này vào việc xác định sự thành công của cấy ghép nha khoa chính là bác sĩ Schnitman và các cộng sự của ông, chính ông đã xác định rằng một ca cấy ghép thành công thì lượng xương bị mất đi không được lớn hơn một phần ba chiều cao xương hiện có.
Bác sĩ Adell và những cộng sự đã đưa ra một nghiên cứu kéo dài 15 năm về sự liên kết giữa xương và implant đã đưa ra được mức độ tiêu xương trung bình là 1,5mm trong năm đầu tiên và mỗi năm sau đó sẽ mất 0,1mm.
Bác sĩ Cranin và các cộng sự của ông cũng đưa ra nhận định trên hình chụp X-quang không nên thiếu mất hình chữ V hay ổ xương và không mở rộng khoảng không quanh mô cấy ghép. Không lâu sau đó, bác sĩ Albrektsson và những cộng sự đã tuyên bố rằng sự mất xương trung bình 1 mm sau năm đầu tiên, và trên mô cấy không có triệu chứng viêm nhiễm thì được coi là chấp nhận được; và những năm sau đó, mức tiêu xương trung bình dự kiến là ít hơn 0,2 mm/năm. Papaspyridakos và các cộng sự thì đưa ra kết luận rằng thành công lý tưởng nên dựa trên tổng thể phức hợp của mô cấy ghép và phục hình.
Điều quan trọng là phải phân biệt giữa các khái niệm mô cấy ghép sống sót và mô cấy ghép thành công. Sự sống sót của implant là đề cập đến việc mô cấy ghép tại vị trí cấy ở thời điểm kiểm tra, cho dù chúng đã được phục hình hay chưa. Ngược lại, mô cấy ghép thành công của được biểu thị không chỉ tại vị trí cấy ghép mà còn cả việc tải được chức năng của một chân răng thật. Một nghiên cứu của Pjetursson đã đưa ra hai đánh giá có hệ thống về tỷ lệ sống sót và tỷ lệ biến chứng trong khoảng 45 năm. Đánh giá gần đây nhất không tìm thấy sự khác biệt giữa tỷ lệ sống sót trong các nghiên cứu hồi cứu và tiền cứu, và sau 5 năm, tỷ lệ sống sót của phục hình cố định được hỗ trợ cấy ghép là 95,6 %. Nghiên cứu hiện tại đã xác định tỷ lệ thành công, bởi vì tất cả các mô cấy theo sau đã được khôi phục hoàn toàn.
Nghiên cứu này là sự tiếp nối của đánh giá hồi cứu hai năm được công bố vào năm 2018, với việc tiếp tục theo dõi các trường hợp từ nghiên cứu đó, cũng như theo dõi các trường hợp tiếp theo. Mục tiêu của báo cáo này là đánh giá hiệu quả lâm sàng lâu dài và kết quả chụp X-quang của thiết kế cấy ghép mới này liên quan đến loại phục hình được đặt, tình trạng tiêu xương và tình trạng y tế được quan sát đối với bệnh nhân được điều trị tại một phòng khám.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
327 Cấy ghép dạng thuôn Hahn ™ với nhiều đường kính và độ dài khác nhau đã được sáu nha sĩ thực hiện cấy ghép cho 117 bệnh nhân trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2015 đến tháng 4 năm 2021 tại một phòng khám. Các bức ảnh X-quang khoang miệng được thực hiện để đánh giá phần xương hàm xung quanh mô cấy. Các bức ảnh này được chụp bằng hệ thống tia X trên máy cầm tay Nomad Pro ™ (Aribex, Inc.; Charlotte, N.C.) cài đặt ở 60 kVp và 2.5 mA, sử dụng kỹ thuật song song. Tất cả các bệnh nhân được điều trị trong khoảng thời gian này đều được đánh giá, mỗi bệnh nhân đặt cấy ghép, theo dõi bằng chụp X-quang khoang miệng hàng năm ít nhất một lần, sau khi đã phục hình lần cuối cùng mới được đưa vào đánh giá tỉ lệ tiêu xương. Tất cả các mô cấy đã loại bỏ được đưa vào để đánh giá tổng thể tỷ lệ thành công và tỷ lệ sống sót, bất kể chúng có được theo dõi bằng X-quang hay không. Từ 327 mô cấy ghép, thì có 89 bị loại bỏ vì có thời gian theo dõi dưới một năm hoặc phim chụp X-quang không đủ chất lượng để đánh giá. Do đó, có 238 mô cấy ghép được cấy ghép trên 101 bệnh nhân đã được đưa vào nghiên cứu này. (Hình 1)
Để đánh giá tình trạng mất xương ở vùng xương hàm, thì cần có hình chụp X-quang ngay sau phẫu thuật và lần theo dõi gần nhất. Để đưa vào phân tích thì yêu cầu hình chụp phải thể hiện rõ phần ren của mô cấy ghép, có thể thấy cả phần ren ở xa và phần giữa. Đánh giá mất xương được thể hiện qua phần mềm chụp ảnh nha khoa DEXIS ™. Đường kính bộ cấy ghép được sử dụng để hiệu chỉnh kích thước hình ảnh với hệ số phóng đại 1.0, không áp dụng bất kỳ hiệu chỉnh phóng đại nào cho hình ảnh đã hiệu chỉnh. (Hình 2-A).
Khoảng cách tuyến tính từ phần vai Implant đến điểm tiếp xúc đầu tiên của xương với bộ phận cấy ghép được đo ở cả mặt giữa và mặt xa, như được quan sát trong Hình 2-B.
Phép đo X-quang được lặp lại cách nhau một tuần để tăng độ tin cậy của phép đo và các phép đo trung bình được sử dụng để phân tích. Độ mất xương trung bình (MBL) được thiết lập là sự khác biệt giữa số đo của phim chụp X-quang khoang miệng sau phẫu thuật ban đầu và X-quang theo dõi gần đây nhất. MBL cũng được đánh giá liên quan đến vị trí đặt và cả loại phục hình cuối cùng.
Sự sống sót của implant được xác định bởi sự hiện diện của implant tại chỗ cấy ghé khi được theo dõi. Trong khi đó, thành công của ca cấy ghép được xác định bởi: (1) chức năng hỗ trợ phục hình dứt điểm; (2) tại chỗ cấy ghép không triệu chứng; và (3) không có hiện tượng phóng xạ liên tục xung quanh mô cấy.
Phân tích thống kê được sử dụng cho nghiên cứu này được thực hiện thông qua Thống kê SPSS của IBM dành cho Windows (phiên bản 21.0.0.0; IBM Corp., Armonk, NY, USA). Để xác định mối quan hệ giữa các tham số được thử nghiệm, phân tích Log Rank (Mantel-Cox) và Pearson’s r đã được thực hiện; Giá trị P được coi là có ý nghĩa nếu p <0.05 và p <0.01 tương ứng. Phân tích tỷ lệ sống sót của Kaplan-Meier được sử dụng để xác định khả năng sống sót tích lũy của các mô cấy được đặt trong suốt 6 năm, cũng như tỷ lệ sống sót đối với vị trí và độ dài của mô cấy.
KẾT QUẢ
Tổng số 101 bệnh nhân với tuổi trung bình là 44,9 ± 12,8 được đánh giá; 48 nam và 53 nữ được đánh giá trong nghiên cứu này (Bảng 1). Trong 101 bệnh nhân được bao gồm, có 47 bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi các tình trạng y tế, trong đó huyết áp cao là bệnh thường xuyên được quan sát thấy nhất (Bảng 2).
Mô tả | Tuổi | Độ lệch std | Đối tượng |
Tuổi trung bình tổng thể | 44.9 | 12.80 | 101 |
Tuổi trung bình (nam) | 44.4 | 12.78 | 48 |
Tuổi trung bình (nữ) | 45.8 | 11.85 | 53 |
Mô tả | Đối tượng ảnh hưởng | Số Implant |
Hút thuốc | 5 | 12 |
Bệnh tiểu đường | 6 | 15 |
Huyết áp cao | 23 | 60 |
Trào ngược dạ dày | 3 | 11 |
Rối loạn tuyến giáp | 7 | 17 |
Hóa trị liệu | 2 | 4 |
Vi rút epstein barr | 1 | 4 |
Tổng | 47 | 123 |
Tỷ lệ sống tích lũy tổng thể trong thời gian theo dõi 6 năm đối với 238 implant được đánh giá là 96,2% (Hình 3). Phân tích Kaplan Meier được sử dụng để tính toán tỷ lệ sống tích lũy tổng thể cũng như tỷ lệ sống sót liên quan đến vị trí và chiều dài cấy ghép (Bảng 3). Tuy nhiên, kiểm tra Log Rank về sự bình đẳng của phân bố tỷ lệ sống sót cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ sống sót đối với các vị trí cấy ghép và độ dài cấy ghép khác nhau (Bảng 4).
Biến đổi | Implant | Implant lỗi | Phân tích sống sót | ||
Số lượng | Phần trăm % | ||||
Vị trí cấy ghép | Hàm trên phía trong Hàm trên phía trước Phía trong hàm dưới Phía trước hàm dưới | 86 42 93 17 | 6 1 1 1 | 80 41 92 16 | 93.0% 97.6% 98.9% 94.1% |
Chiều dài Implant | 8mm 10mm 11.5mm 13mm 16mm | 39 53 85 51 10 | 3 3 2 1 0 | 36 50 83 50 10 | 92.3% 94.3% 97.6% 98.0% 100.0% |
Tổng thể | 238 | 9 | 229 | 96.2% |
Các biến số đánh giá | Kiểm định bình phương (Chi-Square) | Bậc số tự do (df) | Hệ số Sig. |
Vị trí cấy ghép | 4.184 | 3 | .242 |
Chiều dài implant | 3.666 | 4 | .453 |
Có 9 ca cấy ghép thất bại được quan sát ở 8 bệnh nhân, phân bổ gần như đồng đều giữa các giới tính và độ tuổi từ 28 đến 62 tuổi. 67% số ca cấy ghép thất bại nằm ở hàm trên phía trong, với 78% số ca cấy ghép thất bại được đặt bằng tay và 22% được đặt bằng khuôn theo hướng dẫn kỹ thuật số. Ít hơn 60% số cấy ghép thất bại được ghép xương, và gần một nửa được lấy ra trước tháng đầu tiên sau khi tiến hành cấy ghép (Bảng 5).
Đường kính và chiều dài Implant | Vị trí cấy ghép | Bệnh nền | Tuổi | Giới tính | Phương thức phẫu thuật | Ghép xương | Thời gian lỗi (tháng) |
Ø3.5 x 8mm | Hàm trên phía trong | Không | 62 | Nam | Tay | Có | 4 |
Ø3.5 x 10mm | Hàm trên phía trước | Không | 62 | Nam | Tay | Có | 10 |
Ø3.5 x 11.5mm | Hàm trên phía trong | Tiểu đường | 39 | Nữ | Máng | Không | 68 |
Ø4.3 x 10mm | Hàm trên phía trong | Vi rút epstein barr | 53 | Nữ | Tay | Có | 6 |
Ø4.3 x 11.5mm | Phía trong hàm dưới | Không | 38 | Nữ | Tay | Không | 0 |
Ø4.3 x 13mm | Phía trước hàm dưới | Huyết áp cao | 60 | Nam | Máng | Không | 0 |
Ø5.0 x 8mm | Hàm trên phía trong | Không | 28 | Nam | Tay | Có | 0 |
Ø5.0 x 10mm | Hàm trên phía trong | Huyết áp cao /Hóa trị liệu | 38 | Nữ | Tay | Không | 0 |
Ø7.0 x 8mm | Hàm trên phía trong | Không | 39 | Nam | Tay | Có | 0 |
Mức độ xương được đánh giá trong 229 ca cấy ghép, trong đó những ca cấy ghép thất bại sẽ được loại ra khỏi phép đo MBL. Tổng thể MBL thu được là 0.6±0.753mm và phân phối chuẩn liên quan đến tần số có thể được nhìn thấy trong hình 4.
MBL được đánh giá liên quan đến vị trí cấy ghép và loại phục hình cuối cùng (Hình 5). Một số trường hợp tăng chiều cao xương ở đỉnh implant được chỉ ra bằng giá trị âm đối với MBL, như được thấy trong Bảng 6 và được mô tả trên cả phần giữa và phần xa của mô cấy trong Hình 6. Không tìm thấy mối tương quan đáng kể nào giữa MBL và vị trí cấy ghép. Trong khi cấy ghép ở hàm trước cho thấy MBL cao nhất (1,095 mm) trong số bốn vị trí được đánh giá, phát hiện này không có ý nghĩa thống kê (Bảng 7). MBL tương tự ở hàm trên và hàm dưới, với số đo lần lượt là 0,554 mm và 0,529 mm. Có một mối tương quan thuận đáng kể giữa MBL và loại phục hình cuối cùng. Gần 70% ca cấy ghép được phục hình với một mão duy nhất, và nhóm này cho thấy MBL thấp nhất trong số ba loại phục hình cuối cùng được sử dụng. Cấy ghép được phục hình với mão bắt cầu và phục hình cố định toàn hàm cho thấy MBL tương ứng là 0,935 mm và 0,924 mm. Tuy nhiên, MBL cao nhất là 4 mm chỉ được nhìn thấy trên hai thiết bị cấy ghép, một trong số đó được phục hình với bắt cầu ngắn và cái còn lại là với cầu toàn hàm.
Biến số | Implant | MBL | Giá trị (mm) |
Hàm trên phía trong | 80 | Trung bình Độ lệch chuẩn Tối thiểu Tối đa | .554 .6409 -.7 3.2 |
Hàm trên phía trước | 41 | Trung bình Độ lệch chuẩn Tối thiểu Tối đa | .679 .7866 -1.3 2.5 |
Phía trong hàm dưới | 92 | Trung bình Độ lệch chuẩn Tối thiểu Tối đa | .529 .7739 -8 4.3 |
Phía trước hàm dưới | 16 | Trung bình Độ lệch chuẩn Tối thiểu Tối đa | 1.095 .9185 -.3 2.4 |
Mão đơn | 158 | Trung bình Độ lệch chuẩn Tối thiểu Tối đa | .458 .6307 -1.3 3.2 |
Bắt cầu ngắn | 37 | Trung bình Độ lệch chuẩn Tối thiểu Tối đa | .935 .86.6 -.7 3.8 |
Toàn hàm | 34 | Trung bình Độ lệch chuẩn Tối thiểu Tối đa | .924 .9393 -.7 4.3 |
Tổng thể MBL | 229 | Trung bình Độ lệch chuẩn Tối thiểu Tối đa | .604 .7527 -1.3 4.3 |
Biến số | Số lượng (N) | Hệ số tương quan | Ý nghĩa thống kê (kiểm định hai phía) |
Vị trí cấy ghép | 229 | .075 | .260 |
Phục hình cuối cùng | 229 | .268** | .000 |
Thảo luận
Sau sáu năm theo dõi lâm sàng, tỷ lệ sống sót tích lũy của Implant được tìm thấy trong nghiên cứu này về Hệ thống cấy ghép thuôn nhọn Hahn là 96,2%. Kết quả này so sánh khá thuận lợi với các nghiên cứu khác có thời gian theo dõi tương tự đã báo cáo tỷ lệ sống sót dao động từ 93% đến 95,6%. Hơn nữa, ca cấy ghép được xem là thành công xác định bằng xung quanh vị trí cấy ghép không có triệu chứng với phục hình cuối cùng tương ứng, và không có hiện tượng phóng xạ liên tục quanh trụ implant, giá trị này cũng đạt được là 96,2%. Chúng tôi tin chắc rằng đây chính là dữ liệu hữu ích để các bác sĩ lâm sàng có thể tự tin thông báo cho bệnh nhân về tỷ lệ thành công mong đợi của Implant sẽ được sử dụng để cấy ghép.
Hạn chế đáng kể nhất của nghiên cứu này là việc sử dụng tia X trong khoang miệng để đánh giá mức độ xương. Đây là một công cụ chẩn đoán hai chiều, nó không đo chính xác mức độ xương hàm, yếu tố quan trọng quyết định đến tuổi thọ của implant. Tuy nhiên, đây là phương tiện chẩn đoán được lựa chọn hiện nay vì mức độ tiếp xúc với bức xạ thấp và tiết kiệm chi phí. Mối tương quan được tìm thấy giữa MBL và loại phục hình cuối cùng được thể hiện qua sự mất xương trung bình được tìm thấy trên cấy ghép với mão đơn nhỏ hơn so với bắt cầu ngắn hay toàn hàm. Kết quả này tương tự với kết quả được Alhammadi cùng cộng sự đã báo cáo, trong đó tỷ lệ tiêu xương viền của ca cấy ghép bắt cầu ngắn lớn hơn so với cấy ghép mão răng đơn bẻ.
Nghiên cứu này cũng mang những nhược điểm cố hữu chung của các loại nghiên cứu hồi cứu cố hữu là hồ sợ lịch sử y tế không đầy đủ và thiếu các bức ảnh chụp X-quang tiếp nối nhau để giảm kích thước mẫu nghiên cứu. Ngoài ra, không thể kiểm soát một số biến số khác bao gồm như tuổi tác, sức khỏe (ví dụ: hút thuốc, bệnh nha chu), chất lượng của xương, quy trình nâng xương, quay trình điều trị cho từng bệnh nhân. Một nghiên cứu định hướng theo dõi có kiểm soát việc thu thập tiền sử y tế và nha khoa đầy đủ nên được xem xét để mở rộng phân tích nghiên cứu hiện tại.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu kéo trong dài sáu năm này đã chứng minh rằng hệ thống cấy ghép dạng thuôn của Hahn có tỷ lệ thành công cao là 96,2% và duy trì mức độ xương đỉnh với MBL tổng thể là 0,6 mm. Trong những hạn chế của nghiên cứu hồi cứu này, các kết quả thu được cho thấy rằng cấy ghép thuôn của Hahn là một hệ thống cấy ghép thành công và đáng tin cậy để thay thế các răng đã mất.
Link tải file gốc: https://by.com.vn/gRvXU3
Link tải file nghiên cứu đã dịch: https://hahnimplant.vn/gallery/catalog/